Gia tộc trà Marriage Frères và dấu ấn trà Việt

Nói về lịch sử trà Pháp không thể không nhắc đến vị trí then chốt của quán trà Hôn nhân gia đình và quán trà Marriage Frères. Quán trà này có một cuốn sách về nghệ thuật thưởng trà của người Pháp, lịch sử của thương hiệu trong dòng chảy lịch sử trà thế giới, trong đó chúng ta tìm thấy những dấu mốc thú vị của lịch sử Pháp, và những dấu vết của Việt Nam.
25 tháng 7, 2023 bởi
Thuy Diem
How to make Zaam green tea: The secret to enjoying a perfect cup of tea.

​1. GIA ĐÌNH TRÀ MARIAGE FRÈRES

Cho đến thế kỷ 20, hôn nhân là tên của một gia đình nổi tiếng ở Pháp với ít nhất bốn thế hệhôn nhân là tên của một gia đình nổi tiếng ở Pháp với ít nhất bốn thế hệ, kéo dài bốn thế kỷ, gắn liền với lịch sử trà Pháp nói riêng và của những biến động lịch sử xung quanh trà nói chung.



​2. MỘT SỐ LỊCH SỬ VỀ TRÀ PHÁP

Châu Âu nói chung và Pháp nói riêng biết đến trà rất muộn so với Châu Á, cụ thể là các nước Viễn Đông như Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản, v.v.
Ở Pháp, một trong những người hâm mộ trà đầu tiên là vua Louis XIV. Lịch sử còn ghi lại rằng vào năm 1665, các thái y của cung điện Versailles đã kê trà như một loại thuốc để nhà vua “dễ tiêu hóa”. Vua Louis XIV cũng biết rằng người Trung Quốc và Nhật Bản không bị bệnh gút hay bệnh tim vì họ uống trà thường xuyên; và trước đó, vào năm 1634, linh mục dòng Tên Alexandre de Rhodes, người đã sống hàng chục năm ở các nước châu Á và tình cờ là người góp phần khai sinh chữ quốc ngữ ở Việt Nam, đã tiết lộ với châu Âu rằng trà có thể làm giảm chứng đau nửa đầu.

Vào giữa thế kỷ 17, uống trà trở thành mốt ở Paris. Thức uống với lá cây thần thánh này không chỉ trở thành thức uống của giới quý tộc, quý tộc mà còn làm hài lòng những phụ nữ thích sô cô la. Những tín đồ cuồng nhiệt của trà phải kể đến Thủ tướng Séguier, Racine, Madame de Genlis, Cardinal Mazarin, v.v. Lai lịch được ghi lại qua những bức thư của Madame de Sévigné (1626-1696) gửi cho bạn bè, và bà cũng được lịch sử trà châu Âu ghi nhận là bậc thầy về trà. người bắt đầu thói quen thêm sữa vào trà, thói quen này cho đến nay chưa bao giờ lỗi thời.
Ở Anh, đến thế kỷ 19, trà trở thành thức uống quốc gia, Nữ hoàng Victoria là người khởi xướng việc uống trà chiều vào lúc 5 giờ.

Cho đến đầu thế kỷ 19, các nước châu Âu vẫn là nước tiêu thụ chè và Trung Quốc vẫn là nhà cung cấp chè duy nhất cho toàn thế giới. Mãi đến năm 1834, Ấn Độ mới bắt đầu trồng chè, và gần 20 năm sau, vào năm 1857, việc trồng chè mới đến Ceylan, rồi dần dần lan sang các nước khác ở Châu Phi và Nam Mỹ.

Ngày nay, người Pháp uống trung bình 210 gam trà mỗi người mỗi năm, hay 100 tách trà.

​3. PHÁP – VIỆT NAM VÀ MARIAGE FRÈRES TEA – HY VỌNG PHÁT TRIỂN

Những nghiên cứu đầu tiên của người Pháp về trồng và khai thác chè ở Việt Nam bắt đầu từ năm 1825 ở vùng sông Đà ở miền Bắc và sông Cửu Long ở miền Nam. Năm 1890, những đồn điền chè đầu tiên được thành lập ở tỉnh Phú Thọ, với kỹ thuật trồng, chăm sóc và thu hoạch lấy từ Indonesia và Sri Lanka, và nguyên liệu nhập từ Anh.
Đầu thế kỷ 20, Liên hiệp những người trồng chè Đông Dương (Union des Planteurs de Thé d'Indochine) được thành lập tại Pháp. Toàn quyền Đông Dương trong nhiều nhiệm kỳ đã có nhiều nỗ lực phát triển và quảng bá cây chè Việt Nam, đặc biệt là ở Trung Kỳ. Cùng với Việt Nam, cây chè cũng đã cố gắng phát triển trên đảo Réunion thuộc địa của Pháp, nhưng không thành công.

Sau nhiều năm nghiên cứu với những đánh giá tích cực về cây chè Việt Nam cũng như những điều kiện địa lý lý tưởng để phát triển ngành chè chính thức, một trung tâm nghiên cứu nông-lâm nghiệp đã được xây dựng ở Phú Thọ năm 1918, sau đó là Gia Lai năm 1927, và cuối cùng là năm 1927. Lâm Đồng năm 1930-1931.



The first mechanized tea factory appeared in 1923, specializing in the production of green tea, black tea, and lotus tea. While Vietnamese green tea is only recognized by European tea connoisseurs for its delicious quality Chinesquality Chinese green tea, Vietnamese black tea and lotus tea are very popular, especially Shan tea, which is highly appreciated by French tea connoisseurs.

On the map of Vietnamese tea history by Marriage Frères recorded so than the map of Vietnamese tea history by Marriage Frèresn the map of Vietnamese tea history by Marriage Frères recorded so far, Vietnamese tea is still not a place with a variety of tea. Marriage FrèreMarriage Frères commented that the most famous Vietnamese tea is the Dalat tea area with a fresh green tea that can be drunk all day to relieve fatigue; In addition, there is Oolong tea from the Pleiku highlands with wild orchid and chestnut-like leaves, used to accompany meals, and finally black tea, also known as red tea to the Vietnamese, with a strong but quite smooth flavor and earthy notes, which can be drunk all day.

Due to the historical and social changes in Vietnam continued in the following decade continued in the following decades, the level of tea development here has no breakthrough. But from 1995 until now, Vietnam has focused on developing more tea, even in many provinces, tea is considered a key agricultural product for poverty alleviation, integration of technology transfer and international trade.

And this is one of the ways that Vietnamese tea, with its quality, with its high appreciation for the tea world in France as well as in Europe, can seek ways to leave its mark more and more, develop further to the world.

trong Du lịch
Thuy Diem 25 tháng 7, 2023
Chia sẻ bài này
Tag
Blog của chúng tôi
Lưu trữ